LÀNG ÁI TỬ


Ái tử-cái tên nghe rất dễ thương-không biết vì từ cái nghĩa Hán-Việt:Ái là Yêu,Tử là Con-Ái tử là Yêu Con hay từ câu Ca dao mà mọi người Việt nam gần như nằm lòng:

Mẹ thương con ra ngồi cầu Ái tử,
Vợ trông chồng lên núi Vọng phu

mà Cha Ông chúng ta đã đặt tên cho Làng mình là Làng Ái tử.

Làng Ái tử-là vùng đất mà Chúa Nguyễn Hoàng (1524-1613),khi nghe Nhà tiên tri Trạng Trình Nguyễn bỉnh Khiêm phán rằng:

Hoành sơn nhất đái,
Vạn đại dung thân,

đã  cùng Quân Dân tách khỏi Chúa Trịnh ở Phương Bắc,xuôi về Phương Nam,đóng Đô tại Làng Ái tử năm 1558  và  thành lập Chúa Nguyễn
ở Đàng trong-đối chọi với Chúa Trị ở Đàng Ngoài. 

Lúc đóng đô tại Làng Ái tử,Chúa Nguyễn đã xây dựng Cơ ngơi mà ngày nay còn lưu dấu:
-Cột Cờ:Là nơi Quần thần  tập hợp mỗi sáng để Chào cờ,nghe Chúa Nguyễn ban huấn thị.
 Cột Cờ dược xây dựng trên Bãi cát,nay thuộc địa phận Làng Tả kiên.
-Cồn Kho:Là nơi Chúa Nguyễn cất dấu lương thực.Ở đây,trước 1975 là một Lùm cây um tùm,bí hiểm với nhiều cây to lớn,nằm bên một
 cánh đồi mà dưới chân là một Khe nước màu hơi vàng.Lùm Cồn Kho ở khoảng Tọa độ GPRS:VT 16.46/KT 107.08
-Cồn Tập:Là Quân trường,nơi Quân lính luyện tập,nằm trên vùng đất thoai thoải,sau lưng là Sườn đồi,trước mặt là Cánh đồng.
-Cồn Ràn:Là Chuồng Ngựa,là nơi nhốt Ngựa chiến chinh,nằm sâu trong Đồi Núi.
-Bàu Voi:Là nơi voi chiến ngâm mình,tắm rửa…..
Và còn nhiều Địa danh nữa……

Tiền nhân có kể rằng:Ngày xưa có một con rắn Hổ mang đột nhập kho tiền ở Dốc Cồn Kho,nó quấn mình chung quanh cái Lu Tiền nên
Không một ai dám vào lấy tiền để mua lương thực nuôi quân,phát lương cho quần thần nên Nhà Vua ra chiếu chỉ rằng:Nếu ai giết được
Con rắn Hổ mang này thì Nhà vua Sẽ ban cho Chức tước,tiền bạc…..và lúc đó có một thanh niên cường tráng Họ Lê xin tình nguyện giết
Con rắn Hổ mang.Người thanh niên ấy xin Vua một con Ngựa và một cây Gươm dài.Sau khi nhận ngựa và gươm,người thanh niên ấy phi
Ngựa vào Kho Tiền,chạy vòng quanh lu tiền ba vòng rồi vung gươm chem. hai lát,con rắn đứt thành ba khúc bay xa và rơi xuống
tạo thành ba cái Bàu gọi là Bàu Đọi,Bàu Đưng và Bàu Chiếng.Và lu tiền bị đổ xuống con khe dưới chân kho và làm cho nước trong khe này
có màu vàng như màu rỉ rét.

Có một di tích mang dấu ấn thiêng liêng hiện vẫn còn tồn tại tại làng Giang hến (Các Làng Giang hến,Tả kiên và Tiền kiên hiện nay,ngày
xưa là thuộc vùng đất của Làng Ái tử):

Miếu Trảo Trảo:Tọa độ GPRS khoảng:VT 16.46.34/KT 107.09.59
Tương truyền rằng:Năm 1572,lúc nghe Đàng Trong vững mạnh,Chúa Trịnh Đàng Ngoài sai một Tướng Thủy quân tên Lập Bạo,có tài lặn rất giỏi vào Nam ám sát Chùa Nguyễn Hoàng.Đươc tin,Chúa Nguyễn Hoàng đặt Mỹ nhân kế để giết Lập Bạo.Chúa cử một Phụ nữ tên Ngô thị Ngọc Lâm  mở một quán bán nước để Lập Bạo vào uống nước,tán tỉnh.Chúa dặn người phụ nữ ấy rằng:ban đêm,nếu Lập Bạo lẽn vào nhà thì hãy để y ngủ thật say,sau đó cột tóc hắn vào gốc giường rồi dùng dao chem.(Ngày xưa đàn ông để tóc dài như phụ nữ).

Lập Bạo là tướng tài nên đã đề cao cảnh giác,khi người phụ nữ vừa đưa dao lên để chem. y thì y vụt vùng dậy,giật lấy cây dao,cắt bỏ lọn tóc,
chạy ra khỏi nhà,nhảy xuống sông và lặn sâu dưới nước.
Như vậy kế hoạch tiêu diệt Lập Bạo đã bất thành.
Sáng hôm sau,có một con Chim bay tới,bay lui trên mặt sông và kêu Trảo Trảo…Chúa Nguyễn sinh nghi phía dưới đường chim bay là Tướng Lập Bạo đang lẫn trốn nên sai Quân lính đem thuyền bè,vũ khí và lưới ra giăng bắt,quả thật Lập Bạo bơi tới đâu thì Chim bay tới đó,và do vậy
Quân lính Chúa Nguyễn đã giăng lưới bắt và giết được Lập Bạo.Sau khi Lập Bạo bị giết thì con Chim cũng biến mất.
Để tỏ lòng nhớ ơn Con Chim Thần,Chúa Nguyễn Hoàng cho lập một Miếu Thờ có tên Miếu Trảo Trảo,trên bờ sông.
Miếu Trảo Trảo hiện ở cuối làng Phường hến,bên bờ Tây sông Thạch hản,tựa lưng vào Bãi cát làng Ái tử.Miếu Trảo đã bị chiến tranh tàn phá.     Sau đây còn lưu lai  bức hình của Miếu:



Làng Ái tử,nơi Chúa Nguyễn Hoàng đóng đô khởi nghiệp,mang nhiều di tích lịch sử…..

Làng Ái tử,chạy dài từ bờ Tây Sông Thạch hản đến những vùng Núi Đồi tiếp giáp dãy Trường sơn,phía Đông giáp Làng Giang hến,Xuân yên,
Phía Nam giáp Làng Nhan biều,Nại cửu,Phía Bắc giáp làng Tả kiên,Phước mỹ,phía Tây giáp làng Tân phổ,Kiên phước,Lai khê.
Làng Ái tử có con sông xuất xứ từ Trường sơn,được lấy tên làng là Sông Ái tử,chảy xuyên qua làng đến cửa sông Thạch hản,là Mạch Sống của dân làng.Làng cũng có một con khe gọi là khe Đồng rú chạy từ Lai khê,Kiên phước ra,men theo Tây Bắc rồi đổ vào Sông Ái tử. Vào mùa mưa lụt,phù sa được nước mang từ núi rừng xuống bồi đắp lên các cánh đồng,các loài cá từ dưới cửa sông theo lên các cánh đồng sinh đẻ,người dân
đến mùa lụt đơm,bắt được rất nhiều cá.Về mùa khô hạn,người dân đắp đập,lấy nước tưới tiêu cho mùa Lúa Trái,trên nguồn sông,trong đìa,bàu
nước khô  cạn,người dân tha hồ tát,bắt cá.Vì tiếp giáp với rừng,có nhiều đồi cỏ thoai thoải nên người dân nuôi trâu,bò rất nhiều,người dân cũng khai thác được tài nguyên rừng:tranh,củi,gỗ xây dựng,săn,bắt chim,thú…..và phá rừng làm thêm nương,rẫy.
Làng Ái tử có hai con đường giao thông Quốc gia chạy qua:Đường sắt Xuyên Việt và Quốc lộ 1A.Trên mỗi đường đều có bắc cầu qua sông Ái tử.
Từ Đông sang Tây,Làng Ái tử có thể rộng trên 7 cây số.Từ Nam lên Bắc có thể rộng trên 3 cây số.
Làng  có rất nhiều cánh đồng dọc theo hai bên dòng sông Ái tử và Khe Đồng rú:Đồng Nhất,Đồng Nhì,Đồng Lộng,Đồng Rú,……
Làng Ái tử có Bãi Cát trắng xóa chạy từ Làng Nhan biều đến làng Tả kiên,nhưng năm 1965,Mỹ lập căn cứ quân sự và sau năm 1975 đã biến
thành khu thị tứ.
Làng Ái tử hàng năm đều gặp Lụt Bão,đặc biệt là năm nào cũng có vài trận Lụt.Có nhửng trận lụt nước lên đến nóc nhà.Có lẽ nguyên do là bị
Đường Sắt và QL 1A chắn ngang nên nước thoát ra biển không kịp mỗi khi có mưa lớn.

Làng Ái tử nói riêng và tỉnh Quảng trị nói chung,trước năm 1306 là thuộc người Chàm ( Người Champa).nên tên của một số Vùng,Miền mang Âm hưởng tiếng Chàm (tiếng Thượng):Chà Căng,Cồn Đớ,Choi Rọ,Chà Thơm,Trục Xôi,Bàu Năn,Rấy,Đuồi,Bàu Mưng,Bàu Chiếng,Bàu Đọi,Lùm Chà Cỏng………

         SƠ LƯỢC NGUỒN GỐC HÌNH THÀNH TỈNH QUÃNG TRỊ NÓI CHUNG VÀ LÀNG ÁI TỬ NÓI RIÊNG.
Từ thời Hùng Vương - An Dương Vương, vùng Quảng Trị ngày nay được cho là thuộc lãnh địa bộ Việt Thường của Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. Đầu thời Hán thuộc (từ năm 179 Trước Công nguyên đến năm 192), Quảng Trị thuộc đất quận Nhật Nam. Cuối thế kỷ thứ 2, nhân vương triều Hán sụp đổ, Trung Quốc rơi vào tình trạng loạn lạc, cát cứ, một chính quyền bản xứ của quận Nhật Nam và xứ Tượng Lâm đã được hình thành, lập nên vương quốc Lâm Ấp. Lãnh thổ của Lâm Ấp được phỏng đoán tương ứng với vùng từ đèo Hải Vân đến đèo Ngang ngày nay, tức bao gồm cả vùng Quảng Trị.
Tuy mãi đến thế kỷ thứ 10 mới giành lại được độc lập, nhưng các vương triều Đại Việt nhanh chóng phát triển về mọi mặt và luôn tìm cách phát triển lãnh thổ để giành lấy không gian sinh tồn trước sự uy hiếp của Trung Quốc ở phía Bắc và Champa (hậu thân của Lâm Ấp) ở phía Nam.
Sự phát triển nhanh chóng của Đại Việt là mối lo ngại Champa cũng như tham vọng của Tống triều. Để loại trừ mọi uy hiếp ở phía Nam và phá tan âm mưu của nhà Tống câu kết với Champa đánh phá Đại Việt, năm 1069, vua Lý Thánh Tông thân chinh thống lĩnh 5 vạn quân cùng Lý Thường Kiệtđi tiên phong đánh thẳng vào Kinh đô Chà Bàn, bắt được vua Champa làRudravarman III (sử Việt chép tên là Chế Củ) đưa về Thăng Long. Để chuộc tội, Chế Củ xin dâng 3 châu: Bố ChínhĐịa Lý và Ma Linh cho Đại Việt. Vua Lý Thánh Tông nhận 3 châu đó rồi tha cho Chế Củ về nước. Ông cho đổi châu Địa Lý thành châu Lâm Bình, châu Ma Linh thành châu Minh Linh. Địa bàn của châu Minh Linh được phỏng đoán tương ứng với vùng đất từ Cửa Việt trở ra phía Bắc Quảng Trị ngày nay, gồm các huyện Gio LinhCam LộĐa Krông, một phần đất của thành phố Đông Hà, các huyện Hướng Hóa và Vĩnh Linh hiện nay.
Năm 1306, vua Champa là Jaya Sinhavarman III (sử Việt chép là Chế Mân) dâng biểu cầu hôn lên vua Trần Anh Tông xin cướiCông chúa Huyền Trân và dâng 2 châu: Châu Ô và châu (Rí) Lý làm vật sính lễ. Vua Trần bằng lòng gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và nhận hai châu: Ô, Rí. Năm 1309, nhà Trần đổi châu Ô thành Thuận Châu, châu Rí thành Hóa Châu. Địa bàn Thuận Châu tương ứng với vùng đất từ sông Hiếu - Cửa Việt trở vào phía Nam Quảng Trị ngày nay, trong đó có các huyện Hải LăngTriệu Phongthị xã Quảng Trị và một phần đất thành phố Đông Hà hiện nay.
Sang đời nhà Hồ (Hồ Hán Thương 1402) đất nước ta được mở mang đến Chiêm Động và Cổ Lũy (Quảng Nam – Quảng Ngãi ngày nay) .
Từ đó cho đến khi người Việt hoàn thành công cuộc Nam tiến, dù có vài lần Champa chiếm lại được quyền kiểm soát vùng này, nhưng chung quy người Việt vẫn làm chủ được vùng này. Đặc biệt từ sau năm 1558, khi Nguyễn Hoàng được vua Lê Anh Tôngsai vào trấn thủ Thuận Hóa, đóng Dinh Cát ở Ái Tử, các chúa Nguyễn đã áp dụng những chính sách di dân cũng như cho phép người nước ngoài nhập cư vào Đàng Trong, đặc biệt là người Hoa, nhằm làm tăng nhanh dân số cũng như tiềm lực kinh tế để làm cơ sở tranh hùng với các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.
Trong suốt gần 300 năm, vùng đất Quảng Trị tồn tại với tên gọi Cựu dinh thuộc vào trấn Thuận Hóa. Mãi đến sau khi Gia Longlên ngôi năm 1802, đã đặt lại Cựu dinh thành dinh Quảng Trị gồm các huyện Hải Lăng, Đặng Xương (tên cũ là Vũ Xương), Minh Linh và đạo Cam Lộ. Năm 1806, Quảng Trị trở thành dinh trực lệ kinh sư Huế. Năm 1822, đặt châu Hướng Hóa lệ thuộc đạo Cam Lộ.
Đến năm 1827, dinh Quảng Trị nâng lên thành trấn Quảng Trị. Năm năm sau, năm 1832, trấn Quảng Trị đổi thành tỉnh Quảng Trị. Năm 1853, tỉnh Quảng Trị hợp nhất với phủ Thừa Thiên thành đạo Quảng Trị. Tuy nhiên đến năm 1876, tỉnh Quảng Trị được tái lập.
Sau khi nắm được quyền kiểm soát Đông Dương, ngày 3 tháng 5 năm 1890, Toàn quyền Đông Dương Jules Georges Piquet ra Nghị định hợp Quảng Trị với tỉnh Quảng Bình thành tỉnh Bình Trị. Ngày 23 tháng 1 năm 1896, Toàn quyền Paul Armand Rousseau ra Nghị định rút Quảng Trị ra khỏi địa hạt thuộc quyền Công sứ Đồng Hới, cùng Thừa Thiên dưới quyền Công sứ Trung Kỳ, đặt một phó Công sứ đại diện cho Khâm sứ ở Quảng Trị. Mãi đến năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer ra Nghị định tách Quảng Trị ra khỏi Thừa Thiên lập thành một tỉnh riêng biệt gồm 4 phủ: Triệu Phong (Thuận Xương cũ), Hải Lăng, Vĩnh Linh (Chiêu Linh cũ) Cam Lộ và huyện Gio Linh. Ngày 17 tháng 2 năm 1906, Toàn quyền Paul Beau ra Nghị định thành lập thị xã Quảng Trị và đặt làm tỉnh lỵ
(Theo Wikipedia-Bách khoa toàn thư mở)
Làng Ái tử trước năm 1954 có một ngôi Chùa Làng -Tọa độ GPRS: khoảng VT 16.46.30/KT 107.09.12-sát đường xe lửa,cạnh bờ sông,trước Chùa có Cây Bàng.Sau năm 1954 Chùa dời về Xóm Chợ Hôm.
Làng Ái tử có Chùa Sắc tứ xây dựng khoảng năm 1735-1738-Tọa độ GPRS:VT 16.46.06/KT 107.09.35,được phong tặng Di tích Quốc gia,gần Chùa có những Lăng Hình Xoắn ốc,hiện nay vẫn còn.Chùa Sắc từ là một kiến truc độc đáo,một phong cảnh tuyệt vời…

Theo bài báo của Tác giả Lê quang Thái ngày 11 tháng 12 năm 2010 đăng trên Báo Cửa Việt thì Làng Ái tử được ghi vào chính sử năm 1433
nghĩa là được hình thành từ năm 1433 trở về trước.Điều này có thể chính xác,vì theo bài báo về Lịch sử tỉnh Quãng trị đăng trên báo DIỄN ĐÀN KIẾN THỨC.NET ngày 25-04-2011 thì: Đến tháng 6 năm 1306 Vua Chiêm là Chế Mân dâng hai Châu Ô và Châu Rí-bao gồm phía nam Đông hà tỉnh Quãng trị đến tỉnh Thừa Thiên bây giờ-làm quà cưới Huyền Trân Công Chúa.Như vậy biên giới Việt nam đến thời điểm đó là
đến Đèo Hải Vân.
Tọa độ GPRS của Làng Ái tử chấm tại Thị trấn Ái tử:VT 16.46.16/KT 107.09.47
Vậy đến hôm nay năm 2012,chúng ta có thể hảnh diện rằng Làng mình đã trải qua trên 579 Năm rồi.

Láng Ái tử  được chia thành 5 Xóm:
1-Xóm Thượng ở Tây Nam,bên phải sông Ái tử,giáp làng Nại Cửu.
2-Xóm Rọ ở Tây Bắc,bên trái sông Ái tử, giáp làng Tân phổ và Kiên phước.
3-Xóm Rào ở phía Bắc,bên trái sông Ái tử,dưới Xóm Rọ
4-Xóm Hạ ở dưới Xóm Thượng,bên phải sông Ái tử.
5-Xóm Chợ ở dưới cùng,sát bờ sông Thạch hản.

Làng có một Ngôi chợ rất nổi tiếng,vang bong một thời,họp ban ngày vào buổi chiều:Đó là Chợ Hôm,nằm sát bờ sông Thạch hản.Chơ chuyên bán
hàng của Vùng dưới biển như tôm,cá,mực,ruốc,nước mắm…..Chợ không những đón dân địa phương mà còn đón dân các làng lân cận nữa.
Trước 1954,làng có 1 Trường Tiểu học gọi là Trường Ái tử,sau đó dời ra làng Phước mỹ,vẫn mang tên Trường tiểu học Ái tử một thời gian rồi đổi
thành Trường Tiểu học Phước mỹ.

Sau năm 1954,Nhà nước thành lập chính quyền 4 Cấp:Tỉnh,Quận (Huyện ),Xã và Thôn ( Làng ).Làng Ái tử-có lẽ vì qui mô Địa lý và Dân số lớn
hơn nên được lấy tên đầu ÁI để ghép nối với tên đầu của Huyện Triệu phong TRIỆU  để đặt tên xã TRIỆU ÁI bao gồm  Làng Ái tử,Làng Tân phổ,
Làng Kiên phước,làng Lai khê.

Ngày xưa,nghe nói Làng có nhiều người làm đến Chức Bộ,Chức Tri huyện thời Vua Chúa.
Ngày nay,năm 2012,trải qua bao nhiêu cuộc bể dâu,con dân làng Ái tử lưu lạc khắp nơi trong nước và trên thế giới, cũng giàu có,cũng thành đạt Bác sỹ,Kỹ sư,Nhà giáo…..
Dầu ở đâu,làm gì,những người con đã ra đi từ mảnh đất làng,chắc chắn không bao giờ quên được mảnh đất quê hương-nơi đã sinh ra mình.

Làng Ái tử có 4 Tộc Họ chính:
1-Họ Lê Văn-Chiếm dân số nhiều nhất.
2-Họ Đặng Sỹ
3-Họ Hoàng Dữ
4-Họ Nguyễn Đức.
   Có vài gia đình mang Họ Đoàn,Họ Võ-mới nhập cư từ Thôn An Mô,Đâu Kênh….thế kỷ 19.